QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 21/2014/KDTM-GĐT NGÀY 06/06/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG LIÊN DOANH ĐẦU TƯ KINH DOANH

TÒA KINH TẾ TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

 Ngày 06 tháng 6 năm 2014, tại trụ sở Tòa Kinh tế Tòa án nhân dân tối cao mở phiên tòa để giám đốc thẩm vụ án kinh doanh, thương mại theo Quyết định kháng nghị số 77/2013/KDTM-KN ngày 09/12/2013 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 933/2010/KDTM-ST ngày 30/6/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (có hiệu lực kể từ ngày 09/12/2010) về tranh chấp hợp đồng liên doanh đầu tư kinh doanh, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Công ty TNHH xây dựng kinh doanh nhà Bách Giang; có trụ sở tại 268H đường Linh Trung, phường Linh Trung, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh; do ông Trần Văn Bằng - Chủ tịch Hội đồng thành viên làm đại diện.

Bị đơn: Công ty TNHH sản xuất vật liệu xây dựng Phú Đức; có trụ sở tại 481 xa lộ Hà Nội, phường Linh Trung, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh; do ông Nguyễn Ngọc Trung làm đại diện theo Giấy ủy quyền ngày 12/12/2009 của Giám đốc Công ty.

NHẬN THẤY

Theo đơn khởi kiện ngày 16/3/2009, và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn trình bày: Công ty TNHH sản xuất vật liệu xây dựng Phú Đức được giao đất (theo Quyết định số 930/QĐ-TTg ngày 30/7/2001 của Thủ tướng Chính phủ) để đầu tư xây dựng hạ tầng khu nhà ở tại phường Phước Long B, quận 9, Tp. HCM. Diện-    Công ty Bách Giang nhận lại 6.639.654.000 đồng

Tiền lãi phát sinh là 978.039.601 đồng được phân chia Công ty Phú Đức nhận 150.000.000 đồng và Công ty Bách Giang 828.039.601 đồng.

Như vậy, tổng số tiền đóng góp còn lại để đầu tư tính đến tháng 6/2008 là 8.608.803.100 đồng (17.241.457.100 đồng - 8.632.654.000 đồng). Tiền góp vốn của mỗi bên như sau:

- Công ty Phú Đức góp 116.000.000 đồng (2.109.000.000 đồng - 1.993.000.000 đồng) (~ 1,32%).

- Công ty Bách Giang góp 8.676.689.579 đồng (15.316.343.579 đồng - 6.639.654.000 đồng) (~ 98,68%).

Theo Hợp đồng và Phụ lục họp đồng thì Công ty Phú Đức phải góp 20% vốn đầu tư là 1.721.760.620 đồng (20% X 8.608.803.100 đồng) mới góp 116.000.000 đồng còn thiếu 1.605.760.620 đồng.

2. Số diện tích đất ở đã giao 6 hộ dân (nhận bồi thường bằng hình thức hoán đổi đất nông nghiệp nhận lại đất ở có hạ tầng hoàn chỉnh và tiền hỗ trợ) là 5.875m2. Nay xin điều chỉnh giảm xuống còn 5.849m2đất ở, do điều chỉnh giảm 29m2 khi cắm mốc giao đất cho hộ ông Châu Đức Nghĩa chưa xác định rõ. Công ty Phú Đức phải góp 1.169,8m2 (5.849m2x 20%) nhưng chưa thực hiện.

3. Chi phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng của dự án đến tháng 6/2008 là 2.253.664.984 đồng. Công ty Phú Đức phải góp vốn 20% X 2.253.664.984 đồng = 450.732.997 đồng (tại Văn bản số 35/CV.BG.10 ngày 27/4/2010).

4- Về tiến độ thực hiện dự án: Theo báo cáo của Công ty Phú Đức tại Văn bản số 29/CV, 068/CV ngày 12/3/2007 và 10/7/2007) thì kết quả thực hiện san lấp mặt bằng đạt 100%; hệ thống giao thông 80% và hệ thống thoát nước 100% của thiết kế. Lý do Công ty Bách Giang chưa thể hoàn thành hợp đồng do Công ty Phú Đức chưa có thiết kế thi công bờ kè (giá trị 757.771.709 đồng), thiết kế hệ thống điện, hệ thống chiếu sáng, hệ thống cấp nước để phối hợp thi công đồng bộ.

Do Công ty Phú Đức vi phạm họp đồng, Công ty Bách Giang khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty Phú Đức phải:

1. Hoàn trả vốn đầu tư là 2.414.760.620 đồng.

2. Hoàn trả diện tích 1.169,80 mđất ở mà Công ty Bách Giang đã hoán đổi cho 06 hộ dân có đất nằm trong dự án. Nếu không có đất thì trả bằng tiền, theo Chứng thư thẩm định giá số VC09/11/382/BĐS ngày 06/11/2009 của Công ty cổ phần thông tin và thẩm định giá miền Nam xác định thành tiền là 9.517.492.800 đồng (giá 8.136.000 đ/m2đất).

3. Yêu cầu Tòa án buộc Công ty Phú Đức ký hợp đồng với đơn vị tư vấn thiết kế để thiết kế và thi công hệ thống cấp điện chiếu sáng, hệ thống cấp điện,

(thiếu trang 4)

5. Không chấp nhận phản tố của Công ty TNHH sản xuất vật liệu xây dựng Phú Đức trong việc hủy bỏ Hợp đồng liên doanh đầu tư kinh doanh sổ 058/HĐ.LD.PĐ ký ngày 22/01/2003 và Phụ lục hợp đồng sỗ 106/PLHĐ-PĐ-05 ký ngày 17/5/2005”.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí, và quyền kháng cáo của các đương sự.

Ngày 01/7/2010, Công ty TNHH sản xuất vật liệu xây dựng Phú Đức kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Tại Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 213/2010/QĐ-PT ngày 09/12/2010, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh căn cứ khoản 2 Điều 266 Bộ luật tố tụng dân sự, quyết định:

“1. Đình chỉ xét xử phúc tham vụ án kinh doanh, thương mại thụ lý số 113/2010/TLPT-KDTMngày 26/8/2010 về ‘‘Tranh chấp hợp đồng liên doanh đầu tư kinh doanh” giữa:

Nguyên đơn: Công ty TNHH xây dựng kinh doanh nhà Bách Giang. Địa chỉ: 268H đường Linh Trung, phường Linh Trung, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chỉ Minh.

Bị đơn: Công ty TNHH sản xuất vật liệu xây dịtng Phú Đức. Địa chỉ: 481 xa lộ Hà Nội, phường Linh Trung, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 933/2010/KDTM-ST ngày 30/6/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định ”.

Sau khi có quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, Công ty TNHH sản xuất vật liệu xây dựng Phú Đức có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm nêu trên.

Tại Quyết định kháng nghị số 77/2013/KDTM- KN ngày 09/12/2013, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghi Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 933/2010/KDTM-ST ngày 30/6/2010 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh với nhận định: Hợp đồng liên doanh đầu tư kinh doanh giữa Công ty Bách Giang với Công ty Phú Đức không bị vô hiệu; hợp đồng này đang trong quá trình thực hiện, chưa hoàn thành cơ sở hạ tầng của dự án nên chưa xác định được chi phí thực tế cho việc hoàn thành cơ sở hạ tầng; vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào tỷ lệ góp vốn giữa các bên để buộc Công ty Phú Đức phải trả Công ty Bách Giang số tiền đã đầu tư là 2.414.760.000 đồng và 1.169,80 m2 đất (tương đương 9.517.492.800 đồng theo Chứng thư thẩm định giá số Vc09/11/382/BĐS ngày 06/11/2009 của Công ty cổ phần Thông tin và Thẩm định giá miền Nam) là không đúng. Đe nghị Tòa Kinh té Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án sơ thẩm nêu ty Phú Đức vẫn thực hiện hợp đồng và Ban lãnh đạo của Công ty các nhiệm kỳ sau đó không phản đối, do đó, cần xác định họp đồng liên doanh này không bị vô hiệu, đúng với quy định tại điểm 2 phần I Nghi quyết số 04/2003/NQ-HĐTP ngày 27/5/2003 của Hội đồng Thẩm phẳn Tòa an nhan dân tối cao.

Tòa án cấp sơ thẩm xác định Hợp đồng liên doanh đầu tư - kinh doanh nói trên có hiệu lực, không chấp nhận yêu cầu hủy họp đồng của Công ty Phú Đức, nghĩa là các bên vẫn phải tiếp tục thực hiện họp đồng, nhưng lại tuyên buộc Công ty Phú Đức phải hoàn trả số tiền, đất nền góp còn thiếu cho Công ty Bách Giang là không đúng. Tại phiên tòa, các bên đã xác nhận số tiền đầu tư còn lại đến tháng 6/2008 là 8.608.803.100 đồng. Theo tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện thì Công ty Phú Đức góp 1.300.000.000 đồng; như vậy, số tiền của Công ty Bách Giang góp là 7.308.803.100 đồng. Theo thỏa thuận tại phụ lục họp đồng, Công ty Bách Giang phải góp 80% (6.778.132.200 đồng), còn Công ty Phú Đức góp 20% (1.694.530.800 đồng) để thực hiện hoàn thành công trình hạ tầng của dự án. Thực tế, công trình chưa xong cơ sở hạ tầng (theo lời khai của Công ty Bách Giang tại phiên tòa), tức là chi phí thực tế cho việc hoàn thành hạ tầng chưa được xác định, nên Tòa án cấp sơ thẩm tính số tiền mỗi bên góp theo tỷ lệ (%) 80 - 20 để buộc Công ty Phú Đức phải hoàn trả cho Công ty Bách Giang số tiền đã đầu tư là 2.414.760.000 đồng là không đúng vì Họp đồng liên doanh đầu tư nêu trên có hiệu lực, hai bên chưa chấm dứt, thanh lý họp đồng nên Công ty Phú Đức chưa góp đủ theo họp đồng và phụ lục họp đồng thì phải tiếp tục góp đủ để thực hiện dự án.

Đối với yêu cầu của nguyên đơn đòi Công ty Phú Đức phải trả 1.169,80m2 đất (tương đương 9.517.492.800 đồng theo Chứng thư thẩm định giá số Vc09/11/382/BĐS ngày 06/11/2009 của Công ty cổ phần thông tin và thẩm định giá miền Nam) thì thấy được theo các biên bản thỏa thuận bồi thường được ký giữa Công ty Phú Đức với 6 hộ dân, thì ngoài tiền hỗ ứợ hoa màu, vật thể kiến trúc, các hộ dân chấp nhận bồi thường bằng đất theo hình thức đất hoán đổi tại dự án sau khi hoàn chỉnh hạ tầng với tỷ lệ 20% diện tích ban đầu đưa vào dự án, nên theo thỏa thuận này thì 6 hộ dân được nhận diện tích bằng 20% diện tích đưa vào dự án. Nếu sau khi hoàn thành công trình mà Công ty Phú Đức không trả đất cho 6 hộ dân thì các hộ đó có quyền khởi kiện đòi, chứ không phải là Công ty Bách Giang được hưởng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc Công ty TNHH sản xuất vật liệu xây dựng Phú Đức phải hoàn trả cho Công ty TNHH xây dựng kinh doanh nhà Bách Giang 1.169,80m2 đất đã hoán đổi cho 06 hộ dân có đất nằm trong khu nhà ở tại phường Phước Long B, quận 9, thành phố Hồ Chí Minh. Nếu không có đất thì phải trả bằng tiền theo Chứng thư thẩm định giá số Vc09/11/382/BĐS ngày 06/11/2009 là 8.136.000đ/m2 thành tiền là 9.517.492.800 đồng là không có căn cứ.

 

Tên bản án

QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM 21/2014/KDTM-GĐT NGÀY 06/06/2014 VỀ VỤ ÁN TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG LIÊN DOANH ĐẦU TƯ KINH DOANH

Số hiệu Ngày xét xử
Bình luận án